1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1.
Lý do chọn đề tài.
Cùng với sự phát triển và
đổi mói của Đất nước, giáo dục nước ta cũng có những bước phát triển và đổi mới
nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đất nước. Bởi vậy đổi mới
giáo dục Tiểu học là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục, thông qua phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh,
tạo cho giờ học nhẹ nhàng hơn, tự nhiên và hiệu quả hơn.
Trong nhà trường thành
phần chủ yếu đội ngũ giáo viên - đội ngũ nồng cốt giữ vai trò quyết định trong
việc duy trì và giữ vững mục tiêu giáo dục đào tạo trong nhà trường. nói đến
quản lý trong nhà trường là phải nghĩ đến việc nâng cao chật lượng đội ngũ giáo
viên,chất lượng giáo dục cao hay thấp là do đội ngũ giáo viên quyết định. Bởi
vậy, để đạt được mục tiêu giáo dục của nhà trường không có con đường nào khác
ngoài việc nâng cao hiệu quả giờ dạy. Đối tượng lao động sự phạm là học sinh.
Trong các trường giáo dục chuyên biệt đối tượng giáo dục là các em học sinh
khuyết tật. Như vậy, lao động sư phạm vừa có tính chất
trừu tượng vừa có tính chất cụ thể, vừa mang tính khoa học, vừa có tính nghệ
thuật.
- Đối với giáo dục trẻ khuyết tật:
Người giáo viên dạy trẻ khuyết tật vừa là người
người thầy dạy văn hóa vừa là người cha, người mẹ chăm sóc cho các em hẳng
ngày. Họ cũng là người thuốc chữa trị, phục hồi chứ năng cho các em khiếm
khuyết, dạy cho các em biết cách để giao tiếp trong xã hội, biết các kỹ năng
sống tối thiểu nhất trong cuộc sống , định hướng cho các em tiếp cận tới tương
lai. Đây là một ngành giáo dục đặc biệt đòi hỏi người giáo viên không những có
đầy đủ tri thức về giáo dục khuyết tật mà còn đòi hỏi lòng nhân ái, kiên trì,
nhẫn nại và biết hi sinh cho người khác.
Đối tượng lao động sư phạm là học sinh khuyết tật mà
đồi hỏi sự chăm sóc phải chu đáo tỉ mỉ, nhân ái, yêu thương. Giáo viên phải là
người có trình độ về khoa học giáo dục khuyết tật, có năng lực sư phạm, có phẩm
chất nghề nghiệp cần thiết.
Trong quá trình công tác của người giáo viên, nhất
là điều kiện phát triển của xã hội như ngày nay, việc nâng cao nhận thức, nâng
cao hiểu biết về tự nhiên xã hội, về khoa học của mỗi một con người là một yêu
cầu cần thiết. Đặc biệt đối với giáo dục trẻ khuyết tật nói chung, giáo dục trẻ
tự kỉ nói riêng rất cần ở người giáo viên phẩm chất đạo đức, năng lực, trình
độ, nhân cách.
Hơn nữa kế thừa
truyền thống nhân ái tốt đẹp của dân tộc Việt Nam “Thương người như
thể thương thân”, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến những người
thiệt thòi trong xã hội, nhất là đối với trẻ em khuyết tật. Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em khuyết tật là một vấn đề vừa mang tính
khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật về Người khuyết tật có hiệu lực
thi hành vào ngày 01/01/2011.
Vấn đề giáo dục
trẻ khuyết tật nói chung, giáo dục trẻ tự kỉ nói riêng vẫn còn là một
lĩnh vực mới mẻ đối với Việt Nam cả về lí luận và thực tiễn.
Trẻ tự kỉ là trẻ có rối loạn nhận thức,
tinh thần vì vậy trẻ gặp khó khăn về ngôn ngữ và giao tiếp, ảnh hưởng
đến quá trình nhận thức và các chức năng tâm lý khác. Khi đến
trường tất cả những trẻ em bình thường đã có một vốn ngôn ngữ nhất
định (ngôn ngữ tiền học đường) và có một khả năng giao tiếp nhất định
nhưng đối với trẻ tự kỉ thì hầu như
không có và có rất ít. Ngôn ngữ của
các em là những cử chỉ, hành động tự nhiên, tự phát nhằm truyền
tải những nhu cầu, mong muốn của mình với mọi người xung quanh. Do những khiếm
khuyết rối loạn của chức năng não mà khả năng ngôn ngữ cũng như giao tiếp
của các em bị hạn chế. Chính vì vậy, vấn đề giáo dục trẻ tự kỉ chúng tôi
nhận thấy đây là một vấn đề vô cùng gặp nhiều khó khăn. Trong những năm gần
đây số lượng trẻ tự kỉ tăng nhiều, do đó việc đưa ra các chiến thuật giúp trẻ
tự kỉ phát triển ngôn ngữ và giao tiếp, dạy các kĩ năng giao tiếp xã hội cũng
như cách đối phó với các hành vi bất thường là một việc làm cấp thiết. Vì vậy, tôi muốn đúc rút một số kinh nghiệm
nên tôi chon đề tài: "Một số biện
pháp giáo dục học sinh tự kỉ "
1.2.
Điểm
mới của đề tài.
Trong
thực tế tại Quảng Bình nói chung và Lệ Thủy nói riêng vấn đề giáo dục trẻ tự kỉ
mới được bắt đầu trong một vài năm gần đây, nhưng số lượng trẻ tự kỉ thì ngày
càng gia tăng. Công tác giảng dạy và chăm sóc trẻ tự kỉ là một vấn đề đang được
toàn xã hội nói chung quan tâm và đặc biệt ở các trường giáo dục trẻ khuyết tật
chuyên biệt nói riêng. Để nâng cao chất lượng trong giáo dục và chăm sóc trẻ
khuyết tật nói chung, chăm sóc và giáo dục trẻ tự kỉ nói riêng trung tâm đã thành lập câu lạc
bộ và triển khai áp dụng tại Trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật Lệ Thủy và đã
đạt được một số kết quả khả thi.
Vì
thời gian và khả năng có hạn, hơn nữa đây là một vấn đề rộng và phức tạp nên
tôi tập trung nghiên cứu đề xuất một số biện pháp mà bản thân tôi cho là quan
trọng trong việc giáo dục trẻ tự kỉ tại Trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật Lệ
Thủy .
2. PHẦN NỘI DUNG:
2.1.Thực
trạng vấn đề :
Năm học 2019-2020, Trung tâm có 10 giáo viên đều trẻ. Tất
cả giáo viên nói chung đều được sự quan tâm của Ban Giám đốc, của tổ chức Công
đoàn. Trong nhiều năm qua, trung tâm đã thực hiện dạy học có kĩ cương, nề nếp.
Việc kiểm tra, đánh giá nghiêm túc, xây dựng được ý thức trách nhiệm cho đội
ngũ cán bộ, giáo viên và học sinh. Trung tâm luôn chỉ đạo, theo dõi sâu sát tất
cả các vấn đề về chương trình, về thời gian lên lớp, về chất lượng giáo dục, về
sự tiến bộ của học sinh. Đặc biệt, trung tâm rất quan tâm đến công tác bồi
dưỡng đội ngũ, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học, kĩ năng dạy cho học sinh
khuyết tật nhằm phát huy tính tích cực của học sinh khuyết tật. Trung tâm đã
thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không”,
tạo niềm tin đối với phụ huynh.
2.1.1 Bảng
thống kê trình độ đào tạo về Chuyên môn nghiệp vụ
(Tháng 9/2019)
Tổng
số GV
|
Đại
học
|
Cao
đẳng
|
Viên
chức
|
Ghi
chú
|
SL
|
%
|
SL
|
%
|
SL
|
%
|
|
10
|
9
|
90
|
1
|
10
|
10
|
100
|
Chỉ 01 GV có bằng chuyên biệt,
5 GV có chứng chỉ chuyên biệt còn lại Gv mới tuyển dụng và từ phổ thông
chuyển đến.
|
2.1.2. Tình
hình trước khi thực hiện giải pháp
Trung
tâm giáo dục trẻ khuyết tật Lệ Thủy là trường giáo dục chuyên biệt dành cho trẻ
khuyết tật với nhiều dạng tật khác nhau gồm học sinh khiếm thính, khiếm thị, vận
động, bệnh tự kỉ, thiểu năng trí tuệ, down,...., có em mang trên mình nhiều tật
(đa tật) .
Tổng số học sinh toàn trường 59 em /7
lớp.
Trong đó: 15 em khiếm thính, 5 em tật vận động, 28
em khuyết tật trí tuệ, 3 em bệnh down, 8 em tự kỉ.
Công tác giáo dục học sinh khuyết tật nói
chung và học sinh tự kỉ nói riêng là việc làm hết sức tế nhị và đòi hỏi đầu tư
nhiều công sức, sự yêu thương học sinh hết lòng, sự tận tụy để sẽ chia phần nào
những thiệt thòi do bệnh tật của các em. Công tác này gặp một số thuận lợi và
khó khăn như sau:
a. Những thuận lợi cơ bản:
-
Đổi mới giáo dục phổ thông nói chung, đổi mới phương pháp dạy học nói riêng đã
tạo đà vững chắc cho giáo viên kèm cặp, theo sát được đối tượng học sinh.
-
Trong các năm học trung tâm đã tổ chức các chuyên đề về giáo dục học sinh
khuyết tật nói chung và chuyên đề tự kỉ nói riêng.
-
Hằng năm các trung tâm giáo dục học sinh khuyết tật trong toàn tỉnh thường tổ
chức hội thảo chuyên đề về giáo dục học sinh khuyết tật nói chung.
-
Đa số phụ huynh đồng tình với cách đánh giá chất lượng giáo dục theo TT
22/2016, từ đó có biện pháp giáo dục con em của mình.
-
Trung tâm có nhiều giáo viên đã tham gia tập huấn về trẻ khuyết tật và 1 giáo
viên có chuyên môn là giáo dục đặc biệt.
b.
Những khó khăn thách thức:
Tuy
vậy, bên cạnh những mặt thuận lợi cơ bản, việc giáo dục cho học sinh khuyết tật trong trung tâm vẫn còn một số khó
khăn:
-
Về phía Trung tâm: Cơ sở vật chất tuy ngày càng tăng trưởng song
vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu đổi mới giáo dục chuyên biệt.
-
Về phía giáo viên:
+
Đa số giáo viên là được đào tạo theo chương trình giáo dục phổ thông, tuổi đời
còn trẻ, mới được chuyển đến trung tâm nên ít có cơ hội tham gia các lớp tập
huấn về phương pháp và kĩ năng chuyên biệt nên khó khăn cho giáo viên khi dạy
học và chăm sóc học sinh tự kỉ.
-
Một số giáo viên kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục trẻ tự kỉ còn quá ít hoắc
chưa có.
+
Trong một lớp gồm nhiều loại tật khác nhau: khiếm thính, khiếm thị, vận động,
bệnh tự kỉ, thiểu năng trí tuệ, down, ..., có em mang trên mình nhiều tật (đa
tật) do vậy giáo viên gặp nhiều khó khăn khi tổ chức các hoạt động dạy học cho
học sinh.
+
Trong lớp, trong khu nội trú có nhiều đối tượng tật khác nhau nên thời gian
quan tâm đến học sinh tự kỉ còn bị hạn chế.
- Về phía học sinh:
+
Đa số học sinh tự kỉ thường ít giao tiếp với cộng đồng nên vốn từ ngữ ít, các
em thường sống nội tâm.
+
Nhiều học sinh tự kỉ thường nhút nhát khi giao tiếp do khả năng giao tiếp hẹp.
+
Đối tượng học sinh khuyết tật trí tuệ đều ở mức độ nặng và rất nặng, hầu hết
đều có chứng tự kỉ nặng hoặc nhẹ.
+
Trẻ tự kỉ có những điều kiện sống khác nhau, có những độ tuổi khác nhau, có
những biểu hiện của chứng tự kỉ cũng khác nhau và có môi trường giáo dục khác
nhau. Do vậy việc giáo dục của mỗi trẻ là hoàn toàn khác nhau.
2.1.3 Nguyên nhân của những khó khăn
bất cập.
- Chuyên nghành về giáo dục trẻ tự kỉ
ra đời chậm hơn so với các chuyên nghành giáo dục khác.
-
Trung tâm được tách ra từ một trường Tiểu học nên đa số giáo viên là giáo viên
phổ thông chỉ có 1 giáo viên tốt nghiệp giáo dục đặc biệt.
-
Một số giáo viên mới tuyển dụng và một số giáo viên thuyên chuyển công tác từ
các trường tiểu học đến, do vậy chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm trong lĩnh
vực giáo dục trẻ tự kỉ còn chưa có.
-
Giáo viên còn thiếu kinh nghiệm trong giáo dục học sinh khuyết tật do vậy chất
lượng kiến thức-kĩ năng, năng lực, phẩm chất thường xuất hiện tình trạng phân
cực rõ nét khoảng cách ngày càng xa so với học sinh một số tật khác trong lớp.
Do vậy những học sinh tự kỉ khó được bù
đắp về kiến thức kĩ năng dẫn đến càng học lên lớp trên càng khó.
-
Việc đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng cho giáo viên về chuyên môn nghiệp vụ giáo
dục trẻ tự kỉ còn gặp nhiều khó khăn do cơ sở ở xa, nguồn kinh phí lại lớn.
-
Mỗi tiết học thực hiện tối đa 35- 40 phút song phải quan tâm đến nhiều đối
tượng tật trong lớp. Do đó, thời gian để kèm cặp, phụ đạo cho học sinh tự kỉ còn hạn
chế.
- Địa bàn
gia đình học sinh phân bố rộng (28 xã, thị trấn trong toàn huyện), hầu hết phụ
huynh đều có hoàn cảnh kinh tế khó khăn do đó
phụ huynh có hạn chế về sự quan tâm của con em mình.
- Nhận
thức của phụ huynh về con bị tự kỉ mang tính bi quan nên thiếu quan tâm của
việc học tập.
- Kỹ năng chăm sóc của phụ huynh còn hạn
chế nên việc hướng dẫn cho con em còn khó khăn.
- Do nhiều nguyên nhân tác động về xã
hội, môi trường, các nguyên nhân khác mà hiện nay số lượng trẻ ngày càng tăng.
- Nhóm cộng tác viên giáo dục trẻ khuyết
tật còn mỏng chưa đáp ứng nhu cầu của công việc chăm sóc và giáo dục trẻ tự kỉ.
- Chính vì vậy, phương pháp điều tra
những thông tin về trẻ tự kỉ cũng như việc chăm sóc và giáo dục trẻ tự kỉ còn
gặp nhiều khó khăn, cho nên cần phải có những
biện pháp cấp thiết để nâng cao chật lượng gióa dục trẻ tự kỉ trong nhà
trường.
- Hiện nay học sinh tự kỉ ở trung tâm ngày càng đông: 8
có trong 7 lớp
Tuy nhiên, chúng ta nhận diện học sinh
tự kỉ để có kĩ năng giúp đỡ phù hợp với từng đối tượng chứ không phải nhận diện
để “phân biệt” giữa học sinh tự kỉ và học sinh các tật khác nhằm tránh sự mặc
cảm trong các em.
2.2. Một số biện pháp
nhằm nâng cao chất lượng đối với học sinh tự kỉ ở trung tâm giáo dục trẻ khuyết
tật.
Ngày
nay tất cả các biểu hiện của hội chứng tự kỉ được tổng kết lại trong ba phạm vi
lý thuyết:
+ Rối loạn nhận thức - tinh thần:
- Ở đây người ta nói đến sự bât lực của tâm hồn nghĩa là không thể hiểu
được những gì xảy ra xung quanh như: Kinh nghiệm sống, suy nghĩ, cẩm giác và
hành vi của người khác hơn thế họ còn thiếu hẳn khả năng thấu cảm nên không
hiểu được một số cách diễn đạt, các châm biếm hay chuyện hài hước ngắn.
+ Rối loạn " Chức năng thi hành"
- Các rối loạn này thể hiện ở khả năng dự trự tính toán bị giới hạn, ít
linh hoạt và khả năng kiên trì.
+ Rối loạn trung tâm phối hợp
- Ðây là sự rối loạn khả năng phối hợp các điều
kiện xẩy ra hay các vật thể thành một tổng thể.
Nhận thức của người tự bế hay ngừng lại ở các chi tiết và họ hiểu ít về
các liên hệ nguyên thể. Người tự bế tìm nhanh được các lỗi chính tả hay lỗi
viết trong một bài văn nhưng mà nội dung của bài văn họ không hiểu được.
* Các rối loạn này
ảnh hưởng đến:
- Mối quan hệ xã hội.
- Giao tiếp và ngôn ngữ.
- Các
mẫu hành động và sở thích.
Từ
những biểu hiện của hội chứng tự kỉ và thực trạng của giáo viên về kỹ năng dạy
học và chăm sóc học sinh tự kỉ như trên,
tôi mạnh dạn đưa ra những biện pháp hỗ trợ giúp giáo dục trẻ tự kỉ iếp cận với
cộng đồng xã hôi như sau:
2.1.1. Biện pháp 1:
Tìm hiểu sở
thích của trẻ tự kỉ
Để trẻ tự kỉ và tăng động hòa nhập được
với các bạn bình thường khác chúng ta cần phải tìm hiểu sở thích của trẻ, khi
trẻ làm được tốt cần phải có sự khuyến khích động viên kịp thời, cần quan tâm
chăm sóc trẻ nhiều hơn.
Giáo viên cần nắm rõ những gì khiến trẻ
cảm thấy căng thẳng, bình tĩh, khó chịu, hay thoải mái. Nếu nắm rõ được những
gì thường ảnh hưởng đến trẻ để giải quyết tốt hơn các vấn đề, tránh được
những tình huống khó xử và tạo ra những trải nghiệm tích cực hơn cho trẻ.
2.1.2. Biện pháp 2: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ tự
kỉ
- Học cách nghe
- Nhìn- mặt đối mặt
- Thu hút sự chú ý và chia sẻ sự chú ý
- Bắt chước việc tạo ra các âm thanh
- Hiểu các cử chỉ
- Hiểu cách thể hiện bằng các cử chỉ, điệu bộ, nét mặt
- Học các từ và ý nghĩa của từ
- Sử dụng từ nhiều hơn là các kí hiệu
- Hiểu ngôn ngữ
- Dạy trẻ kỹ năng giao tiếp
+ Bắt
chước:
-Trẻ học mọi thứ thông qua bắt chước nét mặt, cử động cơ thể (giơ tay chào, tạm
biệt...), bắt chước hành động (chơi với đồ chơi), bắt chước âm thanh và từ ngữ
(nói)...
+ Học
cách nghe:
- Sử dụng
các dấu hiệu để gia tăng sự chú ý của trẻ, ví dụ động vào tai trẻ để “nghe” và
động vào má để “nhìn”.
+Nhìn-
mặt đối mặt:
- Tạo nên mối quan hệ với bé bằng mọi cách có
thể, nên sử dụng cách nhìn, nghe, sờ mó.
- Hãy khuyến khích trẻ nhận biết
vẻ mặt, ngón chân, ngón tay cả của bạn và của trẻ. Hãy chơi trò chơi và hát bài
hát nhấn mạnh những bộ phận của cơ thể.
Thu hút
sự chú ý và chia sẻ sự chú ý
- Hãy tiếp tục chỉ cho trẻ thấy những điều bạn
thấy thích thú dù rằng bạn có thể nhận được rất ít phản ứng từ trẻ. Hãy chú ý
đến trẻ và nhận xét với những điều mà trẻ đang làm .
+Bắt
chước việc tạo ra các âm thanh:
- Để thúc đẩy không khí từ phổi chuyển ra miệng, hãy chơi các trò chơi
như thổi bong bóng, thổi bóng bay hoặc các mảnh giấy nhỏ. Hãy sử dụng các nhạc
cụ, nếu trẻ không sẵn sàng bắt chước bạn, hãy quan sát xem trẻ có nhìn bạn
không. Hãy xem trẻ có cố gắng làm điều bạn đã làm khi bạn không nhìn bé hay
không.
+ Hiểu
các cử chỉ:
- Hãy làm cùng một cử chỉ, hãy cố gắng nhấn
mạnh trong cùng một tình huống nhiều lần. Ví dụ, hãy chắc chắn rằng bạn đã thu hút
được sự chú ý của trẻ và sau đó đặt một chiếc ghế của trẻ trước khi trẻ ngồi
xuống vào bữa ăn và nói “Con hãy ngồi xuống” đồng thời với việc chỉ tay vào
chiếc ghế.
+Hiểu
cách thể hiện bằng các cử chỉ, điệu bộ, nét mặt:
- Hãy giữ thông điệp trên khuôn mặt của bạn, giọng nói của bạn và ngôn
ngữ của bạn để bắt đầu trò chơi. Ví dụ khi bạn vui vẻ thì giọng nói vui vẻ,
khuôn mặt vui vẻ và nếu cáu giận thì hãy thể hiện ngược lại.
+Học các từ và ý nghĩa của từ
- Dạy trẻ nói “không” khi trẻ không muốn
điều gì đấy, ví dụ khi trẻ gạt đồ chơi sang một bên thì bạn hãy nói “không” để cho trẻ
bắt chước. Bạn sẽ giúp trẻ để thực hiện các lựa chọn.
+ Sử
dụng từ nhiều hơn là các kí hiệu
- Mỗi khi trẻ gọi tên các vật, hãy phản ứng như thể là trẻ đang nói với
bạn. Hãy cầm lấy vật và giữ lấy vật đó để cho trẻ thấy vật đó và khuôn mặt của
bạn khi đó bạn nên nhắc lại tên của vật đó. Ví dụ như trẻ nói “xe”, bạn nên nói
“đúng, xe màu đỏ’’.
+Hiểu ngôn ngữ
- Hãy tìm hiểu các tình huống trẻ đã phản
ứng được khi mọi người nói. Sau đó cố gắng sử dụng cùng một từ cho cùng một
tình huống.Ví dụ khi trẻ quay đầu lại khi bạn nói’’ bố đã về’’ thì lần sau hãy
nói đúng câu như vậy.
- Hãy làm một thống kê các cụm từ toàn thể
gia đình cần dùng trong các trường hợp thường xuyên xảy ra. Chỉ sử dụng các cụm
từ trên trong các thời điểm mà việc sử dụng chúng có ý nghĩa.
- Hãy sử dụng tên của trẻ để thu hút sự chú
ý của trẻ lúc bạn bắt đầu nói, chứ không phải vào lúc kết thúc. Điều này để thu
hút sự chú ý của trẻ trước khi nói có thể vỗ vào trẻ và nói “Huy”
2.1.3. Biện pháp 3: Dạy trẻ kỹ năng giao tiếp
- Vì một số trẻ Tự kỉ không nói được nên giao tiếp có thể là bằng lời cho
những trẻ nào đã biết nói, hay dấu hiệu. Thường thường người ta học nói bằng
cách bắt chước mà trẻ Tự kỉ thì khả năng bắt chước lại không tốt, vì vậy nguyên
tắc dạy nói đi theo qui luật chung trong việc chỉ dạy trẻ là em chỉ chịu liên
lạc khi muốn điều mà không thể tự thoả mãn và phải nhờ người khác hay cách
khác. Bước đầu tiên trong việc dạy kỹ năng liên lạc cho trẻ là nhận biết ra lúc
mà trẻ muốn một điều gì là lúc mà cửa sổ học nói mở rộng nhất,
- Không riêng gì trẻ Tự kỉ, bất cứ trẻ nào
chậm nói đều gặp phải ngôn ngữ quá khó không hiểu được. Khi nói chuyện với trẻ
sơ sinh người ta tự động điều chỉnh ngữ vựng cho đơn giản hơn, lặp đi lặp lại nhiều
hơn và lên xuống giọng rõ nét hơn. Do trực giác ta làm vậy để khi trẻ nghe một
chữ nhiều lần thì biết nắm lấy phát âm của chữ, thính giác của trẻ sơ sinh chưa
được thành thạo như của người lớn nên trẻ xếp đặt thông tin chậm, chưa hiểu
ngay ra được âm phát ra lần đầu.
- Cách học này gây ra nhiều khó khăn cho
trẻ Tự kỉ. Một số em gặp trục trặc ngay từ đầu và không bao giờ nói được, trẻ
không đáp ứng khi nhìn trả lại, mỉm cười với cha mẹ… nên cuối cùng việc thiếu
đáp ứng này có thể làm cha mẹ nói với trẻ như với một người lớn, hay nói mà
không thực tâm chờ được trả lời. Làm vậy càng khiến cho cơ hội học nói của trẻ
giảm thêm. Mặt khác khi trẻ có anh chị thì cha mẹ thường quen nói theo tuổi,
dùng chữ có mức độ khó khăn theo tuổi và có thể không nhớ rằng trẻ Tự kỉ chậm phát triển, có tuổi năm tháng cao nhưng ngôn
ngữ không cao bằng. Kết quả là càng ngày trẻ càng thụt lùi tới khi phải có trợ
giúp đặc biệt mới nói được.
- Vậy làm thế nào để giúp trẻ tự
kỉ bước đầu tiên cần xác định tuổi về ngôn ngữ của trẻ, ví dụ trẻ 3 tuổi nhưng
ngôn ngữ chỉ phát triển bằng trẻ 1 tuổi, về mặt này do chỉ số thông minh IQ có
ích lợi là nó cho biết về tuổi ngôn ngữ và tuổi này liên hệ ra sao với sự phát
triển nói chung của trẻ. Khi biết khả năng thực tế về ngôn ngữ và giao tiếp của
trẻ, cha mẹ và giáo viên có thể lập kế hoạch phát triển ngôn ngữ cũng như điều
chỉnh cách thức giao tiếp cho phù hợp với trình độ của trẻ, bởi có hai loại
ngôn ngữ: ngôn ngữ tiếp nhận và ngôn ngữ diễn đạt, ngôn ngữ diễn đạt có khi
diễn ra chậm hơn nữa so với việc nghe hiểu, nên kích thích khả năng nói có thể
giúp ích cho trẻ.
2.1.4. Biện pháp 4: Gần gũi, khuyên bảo:
Giáo viên cần dành thời gian phân tích, nói cho các em hiểu
bằng hành động nhẹ nhàng, có những
phần thưởng nho nhỏ mỗi khi các trò trở nên ngoan hơn, hoặc hòa đồng cùng các
bạn hơn. Bảo ban, khuyến khích trẻ chơi cùng các bạn và nhờ các bạn khác quan
tâm tới trẻ hơn không phân biệt, kì thị nhau
Buổi
sinh hoạt cuối tuần nên chơi các trò chơi và hướng dẫn chi tiết trẻ tự kỉ về thể lệ chơi và theo dõi chặt chẽ để ý hành
động của trẻ, tránh để cho trẻ bị rơi vào tình trạng cô lập hoặc gây những hành
động ảnh hưởng đến các bạn khác. Để trẻ tự kỉ tham gia hoạt động chung, những
nơi đông người, trẻ nhằm cải thiện khả năng hòa nhập xã hội và xây dựng mối
quan hệ gần gũi hơn với bạn đồng trang lứa. Dạy trẻ biết cách chơi chung với
các bạn bằng việc chia sẻ đồ chơi, yêu cầu được giúp đỡ.
Giao
tiếp với trẻ nhiều hơn, chú ý sử dụng cả ngôn ngữ cơ thể lẫn ngôn ngữ nói, gọi tên trẻ trong nói chuyện cũng là cách
để trẻ học tập cách biểu cảm ý muốn của mình phù hợp. Nếu trẻ có yêu cầu gì mà
chỉ ra hiệu, không nói thì nhất quyết không đáp ứng yêu cầu. Đề nghị trẻ nói
lên ý muốn của mình. Kiên nhẫn, trò chuyện với trẻ nhiều hơn là một trong những
cách để giúp trẻ tự kỉ hòa nhập với cộng đồng.
2.1.4. Biện pháp 4: Quan tâm chăm sóc
Dành thời gian cho những trẻ tự kỉ vào các
giờ nghỉ cá nhân, chăm sóc, hỏi han, dạy dỗ, tạo điều kiện cho các em hòa nhập
với các bạn, bổ sung thêm những kiến thức mà các em chưa nắm được do tiếp thu
chậm. Thường xuyên gọi lên bảng, nếu trẻ sai thì khuyến khích các bạn khác giúp
đỡ bạn, không phân biệt kì thị tạo cho trẻ cảm giác cô lập.
Trẻ tự kỉ cần được giáo viên quan tâm bằng
cách cho ngồi bàn đầu trước mặt giáo viên để giúp trẻ tập trung hơn, tránh ngồi
gần cửa sổ. Khi giao việc cho trẻ giáo viên nên chia công việc theo từng bước
nhỏ để trẻ dễ thực hiện. Khi trẻ phá phách hoặc ngang bướng và không biết nghe
lời, để giúp trẻ kiềm chế cảm xúc nên cho trẻ ra một chỗ yên tĩnh hơn khoảng 5
phút (đây không phải là hình phạt). Cần trao đổi nhẹ nhàng về hành vi của trẻ
để trẻ hiểu và định hướng trẻ thay đổi.
2.1.5. Biện pháp 5: Tuyên dương những hành vi
tốt
Tuyên dương có thể mang lại những
tiến bộ đối với trẻ tự kỉ, vì vậy giáo viên và phụ huynh nên cố gắng động viên
để trẻ tiếp tục phát huy những điều tốt đã làm được. Hãy tuyên dương trẻ khi
chúng biết cách ứng xử hay học được 1 kĩ năng mới và nên chỉ ra một cách cụ thể
hành vi nào của trẻ đang được khen. Bạn nên nghĩ ra những cách khác nhau để
thưởng cho trẻ.
2.1.6. Biện pháp 6: Kết hợp với cha mẹ học
sinh
Xây dựng và phát triển mối quan hệ
giữa trẻ với gia đình (đặc biệt là với mẹ), quan hệ giữa trẻ với giáo viên, với
bạn bè và môi trường xung quanh để thiết lập mối quan hệ tương tác xã hội.
Mạnh dạn trao đổi với phụ huynh
rằng trường học, bác sĩ tâm lí chỉ là nơi cung cấp cho bố mẹ những kiến
thức, hỗ trợ và giám sát chương trình chăm sóc, giáo dục và trị
liệu tại gia đình. Trao đổi với cha mẹ trẻ về những tiến bộ của trẻ khi ở
trường, lúc về nhà, những điều chưa khắc phục được và bàn bạc, tìm ra phương
pháp có lợi nhất cho sự phát triển của học sinh.
Hòa nhập xã hội đối với trẻ tự kỉ là điều
cần thiết và là nền tảng vững chắc cho sự phát triển và giáo dục đối với trẻ
trong tương lai của trẻ. Chúng ta cần thiết phải nhìn nhận trẻ tự kỉ là một đứa
trẻ bình thường và hoàn toàn có thể thay đổi tiến bộ được.Để giáo dục trẻ tự kỉ
có thể hòa đồng được với cuộc sống xã hội là cả một quá trình tác động lâu dài.
Và giáo dục giúp trẻ hòa nhập không phải là việc đơn giản ngày một, ngày hai chính vì vậy cần phải có sự
tác động kiên trì, tâm huyết từ thầy cô, bạn bè, cha mẹ và những người thân
xung quanh trẻ.
2.3 Kết quả đạt được
Qua
quá trình vận dụng linh hoạt các biện pháp trên, chúng tôi nhận thấy các em học
sinh có những tiến bộ rõ rệt về khả năng giao tiếp. Kết quả cho thấy các em học
sinh mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp hơn, sử dụng được các phương tiện giao tiếp, những khó khăn trong giao tiếp cũng được giảm
đi, kết quả cụ thể như sau:
Nội dung
|
Tỉ lệ
|
Mức độ đánh giá
|
Thường xuyên
|
Thỉnh thoảng
|
Hiếm khi
|
Năm 2018 -2019
|
Năm
2019 -2020
|
Năm
2018
-2019
|
Năm
2019 -2020
|
Năm
2018
-2019
|
Năm
2019 -2020
|
Mạnh dạn, tự tin trong giao
tiếp
|
SL
|
1
|
2
|
2
|
3
|
5
|
3
|
%
|
12,5
|
25,0
|
25,0
|
37,5
|
62,5
|
37,8
|
Hiểu từ vựng trong giao tiếp
|
SL
|
1
|
2
|
2
|
3
|
5
|
3
|
%
|
12,5
|
25,0
|
25,0
|
37,5
|
62,5
|
37,5
|
Hiểu
các yêu cầu
|
SL
|
1
|
3
|
2
|
3
|
5
|
2
|
%
|
12,5
|
37,5
|
25,0
|
37,5
|
62,5
|
25,0
|
Biểu đạt tình cảm
|
SL
|
0
|
4
|
2
|
2
|
6
|
2
|
%
|
|
50,0
|
25,0
|
25,0
|
75,0
|
25,0
|
Bảng thống kê cho thấy sau 2 năm học áp
dụng các biện pháp trên, học sinh đã có nhiều chuyển biến tích cực. Sự mạnh dạn
và tự tin hơn trong giao tiếp của các em ở mức độ thường xuyên đã tăng lên, còn
mức độ hiếm khi đã giảm xuống đáng kể. Điều đó cho thấy các em đã mạnh dạn và
tự tin hơn trong giao tiếp. Ở mức độ thường xuyên các biểu hiện như: Hiểu từ
vựng trong giao tiếp, hiểu yêu cầu hay biểu đạt tình cảm cũng tăng lên đáng kể.
Như vậy qua bảng số liệu trên cho thấy các em có số lượng từ vựng đã nhiều hơn,
hiểu các yêu cầu đơn giản, phản ứng lại lời nói nhanh hơn, thích giao tiếp với
cô giáo và các bạn trong lớp.
Qua một thời gian
được học tập và sinh hoạt ở lớp và các hoạt động ngoài giờ, đa số các em có
những biểu hiện tích cực khi giao tiếp:
- Học sinh hiểu được
nhiều từ vựng.
- Học sinh hiểu và
thực hiện được một số yêu cầu đơn giản trong sinh hoạt hằng ngày.
- Học sinh có biểu
đạt tình cảm phong phú hơn trong giao tiếp.
- Học sinh có tiến bộ
hơn trong hợp tác như chơi một số trò chơi đơn giản.
Từ đó, các em không
còn ngại trao đổi những tâm tư, tình cảm của mình với bạn bè và giáo viên, giúp
chúng tôi hiểu học sinh mình nhiều hơn. Điều này chứng tỏ chúng ta đã có những
biện pháp phù hợp để phát triển khả năng giao tiếp của các em.
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của đề tài
- Từ
thực trạng nói trên, chúng tôi thấy vấn đề giáo dục trẻ tự kỉ là rất cần
thiết, cần được tăng cường hơn nữa, cần
phải tìm ra nhiều biện pháp phù hợp với hoàn cảnh thực tế của nhà trường để
công tác giáo dục và chăm sóc học sinh tự kỉ đạt kết quả cao hơn.
- Để
đạt được mục tiêu trong giáo dục và chăm sóc học sinh khuyết tật nói chung, trẻ
tự kỉ nói riêng, vấn đề sử dụng các biện pháp linh hoạt là yếu tố cơ bản quyết
định trực tiếp đến chất lượng giáo dục học sinh tự kỉ.
- Người
giáo viên, nhân viên cần phải có đức tính kiên trì, chịu khó, phát huy tinh
thần trách nhiệm, biết kết hợp chặt chẽ, liên hệ thường xuyên với phụ huynh học
sinh, có biện pháp tâm lý xã hội, biết tìm hiểu, học hỏi bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ, nâng cao tay nghề cho bản thân.
Đặc biệt hơn nữa:
- Đối với bản thân học sinh : Có thể ngăn ngừa những nhân tố
nguy hiểm tới đứa trẻ, thực hiện chức năng chữa bệnh; ngăn cản việc chậm phát
triển cũng như những khuyết tật khác gia tăng.
- Việc trẻ tự kỉ học hòa nhập ở trung
tâm không chỉ tạo điều kiện giúp trẻ tự kỉ phát triển khả năng, mà còn là nơi
giáo dục nhân cách và ý chí phấn đấu cho học sinh toàn trường.
- Đối với phụ huynh: Giảm bớt căng thẳng về vấn đề tình cảm của mình,
bớt bi quan khi nghĩ con mình bị tự kỉ, cải thiện mối quan hệ giữa cha mẹ và
trẻ.
- Làm cho các
thành viên trong gia đình ngày càng gắn bó, đoàn kết hơn, giảm nhẹ gánh nặng
đối với vấn đề chăm sóc - giáo dục
trẻ tự kỉ.
- Đối với xã hội : Có quan điểm, thái độ đúng đắn đối với trẻ tự kỉ
nói riêng và trẻ khuyết tật nói chung.
Có thể rút ra bài học kinh nghiệm
từ công tác bồi dưỡng để nâng cao kĩ năng giáo dục và chăm sóc trẻ tự kỉ cho
đội ngũ như sau:
-
Thiết lập các biện pháp trong dạy học và chăm sóc học sinh tự kỉ một cách cụ
thể trên cơ sở đó mới giúp giáo viên có động lực tự giác tham gia bồi dưỡng bồi
dưỡng và vận dụng một cách có hiệu quả các biện pháp trong dạy học và chăm sóc
học sinh tự kỉ.
-
Tổ chức nhiều hình thức bồi dưỡng đội ngũ trong đó chú trọng khâu thiết kế bài
học đến việc thực thi giảng dạy trên lớp có học sinh tự kỉ, rút kinh nghiệm một
cách nghiêm túc sau hai khâu quan trọng này.
-
Không ngừng nâng cao ý thức tự bồi dưỡng chuyên đề tự kỉ của mỗi một giáo viên,
nhân viên. Công tác tự bồi dưỡng, tự rèn luyện năng lực sư phạm để có tay nghề
cao trở thành một yêu cầu không thể thiếu được của mỗi giáo viên, nhân viên.
Đồng
thời, bồi dưỡng năng lực dạy học trên lớp, chăm sóc học sinh tự kỉ là nhiệm vụ quan trọng, thiết thực để
nâng cao kỹ năng sư phạm cho đội ngũ nhằm đáp ứng yêu cầu mới của Giáo dục
chuyên biệt ở trung tâm hiện nay.
3.2. Kiến nghị, đề xuất
3.2.1. Phòng GD & ĐT:
-Rất mong lãnh đạo cấp
trên tạo điều kiện cho giáo viên được đi đào tạo dài hạ, ngắn hạn, tăng cường
tập huấn về phương pháp giáo dục trẻ tự kỉ.
- Có công văn chỉ đạo, hướng dẫn
nhằm nâng cao chất lượng đối với học sinh tự kỉ (ở các trường tiểu học học hòa
nhập) đặc biệt đối với trung tâm giáo
dục trẻ khuyết tật.
- Trang cấp một số đồ dùng dạy
học, trang bị thêm thiết bị kỹ thuật phục vụ cho việc dạy học trẻ tự kỉ ở trung
tâm.
- Quản lý việc thực hiện dạy học
sinh tự kỉ, theo dõi việc thực hiện có đánh giá đối với trung tâm.
- Tổng kết kinh nghiệm dạy trẻ
khuyết tật và hỗ trợ chuyên môn cho giáo viên và nhân viên dạy ở trung tâm.
- Tham gia quản lý cơ sở dữ liệu
và thông tin về trẻ khuyết tật đang theo học hòa nhập của huyện.
- Tổ chức sinh hoạt chuyên môn
cho giáo viên hỗ trợ cấp tỉnh và huyện.
- Phát hiện vấn đề vướng mắc
trong quá trình thực hiện đưa ra các giải pháp, hoặc chỉ đạo để tìm ra giải
pháp.
3.2.2. Gia đình trẻ tự kỉ:
- Gia đình đóng vai trò quan trọng
trong sự phát triển của đứa trẻ. Đây là môi trường phù hợp với sự phát triển
của trẻ, ở đó trẻ có được cảm giác an toàn, trẻ được lớn lên trong tình thương
của những người ruột thịt; được nuôi dưỡng theo phương thức đặc biệt. Gia đình
còn là môi trường phong phú tạo nhiều cơ hội để trẻ học tập được những kinh
nghiệm sống cần thiết.
- Đầu năm học, bộ phận làm công tác
chuẩn bị kỹ năng cho trẻ khuyết tật hòa nhập vào các bậc học từ lớp một, đồng
thời bàn về sự chuẩn bị hồ sơ, kết quả học tập và các bước chuyển giao trẻ về
các trường học.
Trước khi đến trường, do khả năng
giao tiếp bị hạn chế, trẻ khuyết tật tự kỉ thường có rất ít bạn bè. Để tránh
những mặc cảm ban đầu, ngoài việc chuẩn bị học cụ cần khuyến khích, động viên
trẻ. Trong quá trình tổ chức hỗ trợ các giáo viên và gia đình giúp cho trẻ tìm
những bạn gần nhà để cùng đi học và giúp đỡ trẻ mỗi khi đến trường.
3.2.3. Đối với giáo viên và nhân
viên ở trung tâm
Không phải mọi trẻ tự kỉ đều có thể
đạt được tới mức độ hòa nhập cao, cho nên không thể đồng nhất chất lượng của
GDHN với mức độ hòa nhập. Chất lượng của GDHN là khả năng đáp ứng nhu cầu
giáo dục đặc biệt của trẻ và mức độ hiện thực hoá tiềm năng của trẻ thành khả
năng thực tế của trẻ.
Lập hồ sơ và tổ chức thực hiện kế
hoạch là việc làm rất quan trọng trong GDHN trẻ tự kỉ. Để làm được việc này,
trước hết cần cơ chế để tập hợp các nguồn lực cần thiết thực hiện đồng bộ, sát
sao nội dung được đúc rút trong thời gian qua về giáo dục và chăm sóc trẻ tự kỉ
tạo tiền đề giúp đỡ các em học tốt, thực hiện tốt việc xây dựng và tổ chức thực
hiện kế hoạch cá nhân cho từng trẻ, giúp trẻ khuyết tật từng bước hòa nhập được
với môi trường sinh hoạt tập thể.
Đối với trẻ tự kỉ, khả năng ngôn ngữ
hạn chế dẫn đến sự kém phát triển của tư duy và do đó các em không thể tiếp thu
được các khái niệm trừu tượng, mặc dù về tiềm nằng nhiều em rất thông minh. Nếu
được giáo dục tốt, nhiều trẻ em điếc vẫn có thể trở thành nhà văn, bác sĩ.
Trong trường hợp đó có thể nói là GDHN thành công, có chất lượng. Kết quả giáo
dục được đo bằng mức độ hiện thực hoá khả năng của từng cá nhân trẻ khuyết tật.
Nếu chúng ta phát triển tối đa các tiềm năng của các em, có thể nói là các em
đã được giáo dục có chất lượng.
Trên
đây là những biện pháp, những công việc bản thân tôi chỉ đạo giáo viên, nhân
viên đã làm, đang làm và tiếp tục thực hiện trong quá trình công tác bồi dưỡng
để nâng cao chất lượng cho học sinh tự kỉ ở Trung tâm. Những kết quả gặt hái
được chưa thật sự đáp ứng yêu cầu mong muốn nhưng đã khẳng định được tính khả
thi của vấn đề đưa ra. Rất mong sự góp ý chân thành của đồng nghiệp để đề tài
hoàn thiện hơn, góp phần bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ giảng dạy và chăm sóc
học sinh tự kỉ cho giáo viên, nhân viên, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục học
sinh khuyết tật ở Trung tâm trong giai đoạn hiện nay.
Xin chân thành cảm ơn!